Rate this post

“Tri thức là cội nguồn của quốc gia” là đoạn trích trong bài “Bài vị khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại thứ 3” do Thân Nhân Trung biên soạn năm 1484, niên hiệu Hồng Đức.

Tác phẩm nói về việc dựng bia khuyến khích hiền tài. Việc tổ chức khoa thi 3 năm một lần là một bước tiến quan trọng trong chính sách chiêu đãi nhân tài thời Lê Thánh Tông (từ năm 1463 trở đi, khoa thi tiến sĩ 3 năm một lần), nhưng việc lập bia tiến sĩ còn chậm. . Mảnh vỡ có hai phần chính. Thứ nhất, tác phẩm trình bày vai trò của hiền tài trong việc dựng nước: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nhà nghiên cứu là bậc hiền tài.

Vì vậy, nhà nước thể hiện sự quan tâm có chọn lọc và tôn trọng học giả bằng cách ban phát những ưu đãi lớn như “thăng quan tiến chức” vinh dự, yến tiệc, v.v…, nhưng đó là những biện pháp có giá trị tức thời. Dựng bia là một trong những biện pháp cần thiết để động viên, khuyến khích nhân tài: Khắc tên thầy thuốc lên bia để tên tuổi của họ được lưu giữ lâu dài là một hình thức động viên, khuyến khích quan trọng.

Mặt khác, khi đã khắc tên vào bia đá, thì người nho sĩ phải nỗ lực để công đức cho tên tuổi được lưu giữ mãi mãi. Chủ trương dùng bia đá để khuyến khích tinh thần tự giác là chủ trương “độc quyền” của Nho giáo. Trong một đoạn văn ngắn, tác giả đã thay đổi “điểm nhìn”, nhìn từ góc độ của một nhà lãnh đạo (do vua sai tác giả viết bài văn tế), khẳng định việc đề bạt, tuyển chọn nhân tài luôn là một việc làm. . của các thánh. hoàng đế và các vị vua”.

Các biện pháp đã được thực hiện để khuyến khích và đãi ngộ nhân tài, thể hiện chính sách tích cực của chính phủ đối với nhân tài. Đoạn văn này có chức năng ca ngợi triều đại Lê Thánh Tông, đồng thời có chức năng nhắn gửi thế hệ sau, có giá trị lâu bền là chân lý: “Các bậc lãnh đạo phải quan tâm và tôn trọng họ. tài năng”.

Nhìn vào người nho sĩ, tác giả phân tích quy luật tâm lý: Đặt bia đá nghĩa là “khiến kẻ sĩ trông cậy, rèn luyện công danh, ra sức phò vua”. Trái lại, kẻ sĩ vốn xuất thân nghèo khó, khi được triều đình tôn vinh, đương nhiên phải ban thưởng “kẻ sĩ ở túp lều tranh, tài sản ít ỏi mà triều đình quý trọng như vậy, thì nên làm sao đây? làm sao??tôn trọng bản thân và cố gắng thưởng cho anh ấy?”. Một điểm nữa là nếu người ngoài cuộc nhìn thấy tên mình trên tấm bia “thiện nhiều, ác ngăn” thì họ không thể làm điều ác, điều ác.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hy sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý. , trở về quê hương trực tiếp cống hiến tài năng của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa, người đã chế tạo ra nhiều loại vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ Tôn Thất Tùng, Bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ nhiều công sức tìm tòi, nghiên cứu, tạo ra những loại kháng sinh quý để cứu chữa cho bộ đội, thương binh trên chiến trường.

Nhà nông học Lương Định Của đã dành cả cuộc đời trăn trở, nghiên cứu để tạo ra những giống lúa mới chống chịu sâu bệnh, cho năng suất cao nhằm cải thiện đời sống nông dân và tăng cường cung cấp lương thực cho chiến trường miền Nam. Đó là tấm gương tiêu biểu của những người “khôn ngoan” một lòng một dạ vì lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc.

Xem thêm :   Top 5 Trường Đào Tạo Ngành Công Tác Xã Hội Tốt Nhất – Đề án 2020

Như đã nói ở trên, “gien” đóng vai trò quan trọng đối với sự hưng thịnh của đất nước. Nhưng “thiên tài” không tự nhiên mà đến. Ngoài năng khiếu bẩm sinh, người tài cần được phát hiện và giáo dục theo một quy tắc chặt chẽ, để họ nhận thức được mục đích của việc học là rèn luyện đạo đức làm người, đề cao tình thương tương thân tương ái, hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với xã hội. . .

Xưa kia, theo quan niệm của Nho giáo, việc giáo dục con người phải lấy đức làm gốc (đức tại bản), lấy tài làm đầu (tín tại dã). Nguyễn Trãi cũng đặt đức lên trên tài: “Có tài thì kém đức mấy tấc”. Đại thi hào Nguyễn Du cũng từng khẳng định: “Ba chữ tâm bằng ba chữ tài”. Khái niệm chính xác này vẫn đúng cho đến ngày nay. Bác Hồ nhấn mạnh trong cuộc nói chuyện với học sinh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.

Người “hiền tài” trước hết phải là người có đức độ. Trong chế độ phong kiến ​​trước đó, đức tính là lòng trung thành và lòng yêu nước. Mọi suy nghĩ và hành động của người “khôn ngoan” đều không nằm ngoài bốn chữ này. Những mưu cầu, nỗ lực vun vén lợi ích cá nhân không thể tác động, ảnh hưởng đến lý tưởng giúp vua, giữ nước cao cả của họ. Xét về tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, họ xứng đáng là những người chính trực, cao thượng: “giàu không thể dâm, bần không thể động, uy bất khả xâm”. (Giàu không thay đổi, nghèo khó không lay chuyển, bạo lực không thể khuất phục) “Hiền tài” là tấm gương dũng cảm, trung với nước, hiếu với dân.

Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên của nhà Trần, được triều đình cử đi sứ phương Bắc, đã cho các vua quan nhà Minh thấy rõ khí phách của một đấng quân tử chính là từ tài hùng biện của ông. Giang Văn Minh sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ danh dự Nam vương và nước Nam, xứng đáng là sứ thần Đại Việt. Không thể kể hết tên những bậc “hiền nhân” của nước Nam, như Nguyễn Trãi đã từng viết: “Mạnh yếu tùy thời thay đổi, đời nào cũng có anh hùng” (Bình Ngô Đại Cáo).

Tuy nhiên, lịch sử mấy nghìn năm của đất nước ta có nhiều bước thăng trầm. Nói chung, câu chuyện luôn phát triển theo hướng đi lên; Nhưng có những thời điểm trong lịch sử có giai đoạn trầm cảm và bi kịch. Vận mệnh dân tộc, đất nước đặt lên vai những “nhà thông thái”, nhưng vì nhiều lý do họ đã không thể đảm đương trọng trách mà Tổ quốc đã giao phó. An Dương Vương nguy nga với thành Cổ Loa kiên cố và cây cung thần lợi hại, nhưng vì chủ quan khinh địch nên đã lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống chỉ hèn nhát dấn thân làm tay sai cho giặc phương Bắc vì ham danh lợi. Đây là lúc thế năng ban đầu yếu, thế nước yếu và sau đó thấp.

Điều quan trọng nhất là “thần tài” phải thực sự tài năng. Có tài kinh bang tế thế mới có thể nghĩ ra những mưu kế thông minh giúp vua và triều đình trị nước. Tài năng quân sự phi thường của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào những chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần ba lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên. Tài năng quân sự và ngoại giao phi thường của Nguyễn Trãi đã khiến ông trở thành quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò trọng yếu trong chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch 100.000 quân Minh xâm lược đất nước.

Xem thêm :   Những khác biệt trong mùa tuyển sinh 2021 của nhiều trường đại học top đầu

Một tấm gương sáng của một “nhà hiền triết” đã trở thành thần tượng không chỉ trong nước mà còn lan rộng ra thế giới là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng chiến đau thương và vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người ca ngợi lịch sử, truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến Người, nhân dân ta và bạn bè năm châu yêu mến, tự hào; và kẻ chiến bại phải cúi đầu kính trọng.

Xưa, các triều đại phong kiến ​​đều quan tâm đến việc mở trường, tổ chức thi cử để chọn hiền tài ra giúp nước. Sau khi dẹp yên giặc Minh, mở ra nền thái bình muôn thuở, vua Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến việc mở rộng và nâng cao nền giáo dục nước nhà, trong đó có việc phát hiện và đào tạo nhân tài phục vụ cho mục tiêu chấn hưng đất nước. .

Ở các triều đại trước, việc tuyển chọn người làm quan chủ yếu được thực hiện thông qua con đường đề bạt, bổ nhiệm… nhưng đến thời Lê sơ, người hiền tài chủ yếu được tuyển chọn để giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông đã viết trong sắc dụ như sau: “Muốn có hiền tài thì trước phải chọn người có học. Nếu phải chọn người có học thì trước tiên là thi cử. Ở nước ta, từ kinh nghiệm binh lửa mà ra”. chiến tranh, nhân tài ít như lá mùa thu, tu sĩ hiếm như sao mai.

Thái Tổ nước ta mới lập, lập ngay trường học, nhưng khi khai mở chưa có khoa thi. Ta làm theo ý hoàng thượng, muốn đủ tài để đáp ứng kỳ vọng. Trong chỉ dụ của mình, vua Lê Hiển Tông cũng khẳng định: “Thánh Minh Vương, không ai không đảm nhận công việc bồi dưỡng nhân tài, yêu cầu học sĩ, làm việc lấy làm đầu”.

Người có tài, có đức giữ vai trò quan trọng như thế nào đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay? Nếu hiểu theo nghĩa “nhân tài” là người giỏi giang, có khả năng đặc biệt để làm một việc nào đó thì thực tế “thiên tài” ở lĩnh vực nào cũng có. Họ là những con người vượt khó vươn lên thành công, họ là những doanh nhân có tâm, có tài sản xuất ra những sản phẩm chất lượng mang lại lợi ích lớn cho dân, cho nước, họ là những nhà khoa học có nhiều thành tựu, chương trình hữu ích, thiết thực, họ là những nhà lãnh đạo tư tưởng, hoạch định sáng tạo . chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng phát triển. Tất cả hợp lại thành “nguyên khí quốc gia”.

“Thiên tài” không tự nhiên mà đến. Bên cạnh những tài năng truyền thống do gia đình, dòng tộc, quê hương sinh ra…, người tài phải được phát hiện, giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc, bài bản để thực sự trở thành “hiền tài” của đất nước.

Nhân tài của một nước không nhiều nhưng cũng không hiếm. Để có “hiền tài” nhà nước phải có chính sách đào tạo, sử dụng đúng đắn, có chính sách đãi ngộ xứng đáng, hợp lý. Tạo điều kiện thuận lợi để người “khôn ngoan” phát huy tài năng, đóng góp hiệu quả hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh.

By Cakhia TV

Cakhia TV trang web xem livestream bóng đá trực tiếp miễn phí tất cả các giải đấu hàng đầu thế giới. Xem bóng đá trực tiếp tốc độ cao chất lượng 4k, không quảng cáo, bình luận tiếng việt.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *